KHÔI PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH (1975 – 1981)
Ngày 30/4/1975, Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới: Đất nước thống nhất, cả nước cùng đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Đàn bước vào kỷ nguyên mới trên đà của niềm vui chiến thắng và niềm tin to lớn của nhân dân. Sự hình thành và đi vào hoạt động có hiệu quả của các nông trường, cơ quan, xí nghiệp, của các hợp tác xã; nguồn nhân lực dồi dào với trình độ tốt; đội ngũ cán bộ, đảng viên được hình thành và tôi luyện trong lao động, công tác và chiến đấu; hệ thống giao thông, thuỷ lợi khá dày đặc được xây dựng trong những năm chiến tranh và tiềm năng to lớn về đất đai của Nghĩa Đàn – Đây là những yếu tố rất quan trọng, là nguồn lực hết sức cần thiết phục vụ cho sự phát triển về mọi mặt sau cuộc chiến tranh.
Tuy vậy, Nghĩa Đàn cũng như cả nước đứng trước bao khó khăn, thách thức cần phải khắc phục và giải quyết. Nhiều hạ tầng kỹ thuật, nhà cửa, hệ thống giao thông bị địch đánh phá chưa được khắc phục; thiên tai liên tiếp xảy ra trên địa bàn; tư tưởng bình quân chủ nghĩa và bảo thủ trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân; cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và quản lý không có hiệu quả; nền kinh tế vẫn mang tính tự cung, tự cấp; cơ chế quản lý kế hoạch hoá, bao cấp không còn phù hợp và kìm hãm sự phát triển… Đặc biệt, Nghĩa Đàn cùng với Nhân dân cả nước lại phải gồng mình, đóng góp sức người, sức của cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây nam và biên giới phía Bắc.
Đứng trước thuận lợi nhiều nhưng khó khăn, thách thức không nhỏ, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Đàn đã có nhiều nỗ lực để vượt khó, khắc phục hậu quả chiến tranh và đi lên trên con đường mới.
Thời kỳ này, huyện tập trung đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, ra sức xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhiều nhiệm vụ, giải pháp mới, quan trọng được các kỳ đại hội Đảng bộ huyện đề ra, làm phương châm, mục tiêu, động lực cho từng đơn vị, mỗi cá nhân phấn đấu vươn lên, thực hiện. Trong đó, một số chủ trương lớn, cấp bách được đại hội nêu quyết tâm như: Tập trung cao độ giải quyết bằng được vấn đề lương thực, thực phẩm (Đại hội XVII- 1976); đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, coi đây là mặt trận số một, là vấn đề sinh tử (Đại hội XVIII- 1977); tập trung mọi lực lượng để sản xuất nông nghiệp toàn diện, vượt bậc (Đại hội XIX- 1979)…
Từ đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và mục tiêu mà các kỳ đại hội đảng đề ra, nhiều phong trào lớn, nhiều cách làm mới và nhiều kết quả tốt đã góp phần sớm ổn định và khôi phục về mọi mặt đời sống của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Một loạt công trình thuỷ lợi lớn nhỏ trong huyện được đào đắp như: Đập Đồng Lèn, Khe Lau, Hòn Mát, Khe Yêu… Việc tổ chức di dời hàng ngàn hộ dân ở Nghĩa Thuận, Nghĩa Khánh, Nghĩa Thịnh lên đồi để mở rộng diện tích trồng trọt đã mở ra khí thế mới, cách làm mới. Các nông trường tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước giao. Văn hoá, thể thao, giáo dục, y tế dần được ổn định và tạo ra phong trào mới, nhất là việc xây dựng nếp sống mới, từng bước xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu. Cùng với việc đảm bảo an ninh trật tự và giữ vững tinh thần sẵn sàng chiến đấu trên địa bàn, thanh niên Nghĩa Đàn tích cực và hăng hái tham gia nghĩa vụ quân sự, lên đường bảo vệ Tổ quốc. Qua các kỳ đại hội, Đảng bộ huyện tiếp tục được củng cố và nâng cao cả về số lượng, chất lượng và sức chiến đấu mới. Bộ máy chính quyền các cấp từng bước thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân. Các tổ chức đoàn thể đạt được nhiều kết quả tích cực thông qua các phong trào lớn như: “Ba xung kích làm chủ tập thể”, “Tìm nguyên liệu mà sản xuất, tìm việc mới mà làm”…
Khó khăn dần đi qua. Nhịp sống trên đất Nghĩa Đàn đã hồi sinh để phát triển.
LÀM QUEN VÀ DẦN TIẾP CẬN VỚI CÁI MỚI (1981 -1985)
Một câu hỏi lớn, một mâu thuẫn đặt ra cần phải giải quyết vào những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX ở Nghĩa Đàn, đó là: Đất đai không thiếu, lao động dồi dào song sản xuất nông nghiệp như bị thụt lùi, bình quân lương thực đầu người thấp, chăn nuôi tập thể kém; sản xuất nhỏ, manh mún theo lối quảng canh, tự cung, tự cấp nên năng suất lao động và hiệu quả kinh tế còn thấp.
Một nút thắt được mở ra từ Chỉ thị số 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”. Nghĩa Đàn đã “ngầm” đồng ý cho phép xã Nghĩa Thuận chỉ đạo một số hợp tác xã làm thí điểm “khoán gọn”. Sau một năm thực hiện khoán, năng suất thu được cao hơn, xã viên phấn khởi.
Với phương châm “lấy ngắn nuôi dài”, Nghĩa Đàn đã phát triển mạnh cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, đậu, vừng kết hợp với các cây dài ngày. Sau 5 năm thực hiện khoán theo Chỉ thị 100-CT/TW, kinh tế nông nghiệp của Nghĩa Đàn có nhiều tiến bộ. Sản phẩm của một số cây công nghiệp chủ lực tăng khá, chăn nuôi được mở rộng. Tổng sản phẩm lương thực tăng, nhiều hợp tác xã đạt năng suất cao như Nghĩa Đức, Nghĩa Lộc, Nghĩa Thuận đã góp phần đẩy lùi nạn đói giáp hạt, ổn định đời sống của nhân dân.
Trong thời kỳ này, thông qua các kỳ đại hội và thực tiễn công tác lãnh đạo chỉ đạo, Đảng bộ huyện luôn bám sát các chủ trương, nhiệm vụ của cấp trên gắn với tình hình thực tế của địa bàn để đề ra các nhiệm vụ và giải pháp đúng đắn, phù hợp nên đã thu được những thành tựu đáng kể, chặn được đà giảm sút của sản xuất. Nhận thức và sự tiếp cận với cái mới, cách làm mới đã dần hình thành. Một số mô hình mới, cách làm mới đã xuất hiện trên địa bàn.
Tuy vậy, Nghĩa Đàn cũng như cả nước vẫn ở trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh, lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước bị giảm sút đáng kể..
Đổi mới hay là chết? Đó là khẩu hiệu, là mệnh lệnh mà Đảng ta đề ra lúc bấy giờ để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
Đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực trở thành nhiệm vụ bức thiết, cấp bách hơn bao giờ hết.
(Còn nữa)
Phan Tiến Hải ( Nguyên Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Nghĩa Đàn )