KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN (1954 – 1964)
Chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ “Lừng lẫy Năm châu, chấn động địa cầu”, đánh dấu bước ngoặc rất quan trọng, đưa cả nước, trong đó có Nghĩa Đàn bước vào thời kỳ lịch sử mới.
Biết bao khó khăn chồng chất và bộn bề công việc đặt ra. Hạn hán rồi lũ lụt kéo dài, dịch bệnh xẩy ra liên tiếp, bọn phản động tìm cách gây rối và chia rẽ khối đoàn kết toàn dân… là những thách thức không nhỏ. Bên cạnh đó, một nhiệm vụ cam go, phức tạp phải triển khai thực hiện từ đầu năm 1956, đó là: Tiến hành Cải cách ruộng đất. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” được thực hiện trong toàn huyện, ước mơ ngàn đời của nông dân đã trở thành hiện thực. Bên cạnh những thắng lợi to lớn đạt được thì trong quá trình Cải cách ruộng đất, Nghĩa Đàn cũng đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng và phải tập trung khắc phục hậu quả, sửa sai nghiêm túc. Đến cuối năm 1957, tình hình an ninh nông thôn trên địa bàn mới tạm ổn định.
Sau Cải cách ruộng đất, phát triển tổ đổi công, tiến tới thành lập các hợp tác xã nông nghiệp được Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI (năm 1959) khởi xướng và tập trung lãnh đạo đạt kết quả tốt, làm cơ sở để thực hiện phương thức làm ăn mới theo chế độ tập thể. Tháng 8/1959, Cửa hàng bách hoá đầu tiên của huyện ra đời và mở cửa đón khách. Với khẩu hiệu “Đại tấn công vào giặc dốt”, trẻ em đến tuổi cấp I đều được đi học, tỷ lệ học sinh cấp II tăng lên, hệ bổ túc văn hoá được duy trì và phát triển khá đồng đều, Trường cấp III được thành lập vào năm 1962. Y tế, văn hoá – xã hội được chú trọng phát triển rộng khắp, tạo nên nếp sống văn hoá mới trong các tầng lớp nhân dân.
Cùng với việc phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, trong thời kỳ này, Đảng và Chính phủ đã tập trung phát triển kinh tế miền Tây (nói chung) và ở trên đất Nghĩa Đàn (nói riêng). Một loạt các nông trường, cơ quan, xí nghiệp được thành lập: (Tây Hiếu (1956), Đông Hiếu (1956), 1/5 (1958), 19/5(1958), Cờ Đỏ (1961); Nhà máy 250B – Phủ Quỳ (1956), Trạm Thí nghiệm (1960), Bệnh viện Hữu Nghị trực thuộc Bộ Nông trường (1961). Các nông trường, cơ quan, xí nghiệp được thành lập đem đến cho Nghĩa Đàn một nguồn nhân lực mới, một sinh khí mới, một cách làm ăn mới và một nét văn hoá mới của nhiều miền quê trên cả nước – Có thể nói, đây là nền tảng, là nguồn lực nội sinh rất quan trọng để Nghĩa Đàn khai thác tốt tiềm năng và phát triển về mọi mặt suốt cả chặng đường dài, cho đến hôm nay.
Vinh dự và tự hào biết bao khi Nghĩa Đàn được đón Bác Hồ về thăm Nông trường Đông Hiếu (ngày 10/12/1961). Tình cảm và những lời căn dặn ân cần của Người đã để lại ấn tượng rất sâu sắc và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào thi đua cách mạng trong các tầng lớp nhân dân trên đất Nghĩa Đàn.
Ngày 19/4/1963, Nghĩa Đàn có một sự thay đổi lớn khi thực hiện điều chỉnh địa giới hành chính. Theo đó, chia tách 10 xã của huyện Nghĩa Đàn cùng với 3 xã của các huyện Anh Sơn và Yên Thành để thành lập huyện Tân Kỳ; cắt 3 xã của huyện Nghĩa Đàn cùng với 10 xã của huyện Quỳ Châu để thành lập huyện Quỳ Hợp. Sau chia tách, Nghĩa Đàn còn lại 23 xã và thị trấn Thái Hoà.
Có thể nói, giai đoạn 1954 – 1964 là thời kỳ sôi động và có nhiều biến động của Nghĩa Đàn trên nhiều lĩnh vực, nhất là việc thành lập các nông trường, cơ quan, xí nghiệp và việc chia tách huyện. Nhiều kết quả trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ được ghi nhận và đánh giá cao, làm cơ sở để Đại hội Đảng bộ lần thứ X (tháng 7/1964) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng Nghĩa Đàn thành một huyện phồn vinh, gương mẫu trong thời bình và cơ sở vũng chắc trong thời chiến”.
THAM GIA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC THÀNH CÔNG (1964 – 1975)
Ngày 05/8/1964, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Bước sang năm 1965, chiến tranh lan rộng ra cả nước. Thực hiện lời kêu gọi toàn dân chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh với quyết tâm: “… nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, Nghĩa Đàn cùng cả nước bước vào chặng đường mới: Xây dựng hậu phương vững chắc, sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho chiến trường miền Nam.
Nghĩa Đàn trở thành địa bàn chiến lược quan trọng của Nghệ An và của cả nước với các tuyến giao thông chiến lược: 15A, 15B, QL 48…; nhiều đơn vị đóng quân và luyện tập như: Sư đoàn 316, 324, 304, 312..; nhiều khí tài và phương tiện kỹ thuật được tập trung ở các cụm kho quân khí, quân nhu và đây cũng là nơi sơ tán của nhiều cơ quan, đơn vị trong thời kỳ chống Mỹ. Vì thế, Nghĩa Đàn trở thành một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ trong cuộc Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 – 1968) và Chiến tranh phá hoại lần thứ hai (1972 -1975).
Trước tình hình đó, Lực lượng vũ trang và bán vũ trang Nghĩa Đàn được củng cố, sẵn sàng tư thế chiến đấu. Thanh niên ở các xã, các nông trường xí nghiệp tích cực xung phong lên đường nhập ngũ và tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương. Đại đội Thanh niên xung phong Nguyễn Văn Trỗi được thành lập với 150 đội viên (năm 1965). Năm 1972, thanh niên Nghĩa Đàn tích cực tham gia vào các đơn vị Lực lượng thanh niên xung phong của tỉnh thuộc Tổng đội 271 và Tổng đội 309. Giao thông trên các tuyến đường quan trọng ở Nghĩa Đàn luôn được đảm bảo thông suốt. Quân và dân Nghĩa Đàn đã chiến đấu anh dũng, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ (1 máy bay F105 (ngày 13/5/1965), 1 máy bay F4H (ngày 20/12/1965), 1 máy bay F105 (24/4/1967), 1 máy bay không người lái (12/8/1968), 1 máy bay F105 và bắt sống 1 phi công Mỹ (năm 1972)). Hàng ngàn chiến sỹ bộ đội, dân quân, TNXP đã anh dũng hy sinh trong khi chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ quê hương Nghĩa Đàn và ở trên khắp các chiến trường của cả nước . Nhiều người dân Nghĩa Đàn đã vĩnh viễn nằm xuống dưới bom đạn của kẻ thù. Mất mát, đau thương không thể và không bao giờ bù đắp được.
Với khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Lam – Trà dậy sóng”, trong những năm đánh Mỹ, Nghĩa Đàn tích cực ra sức sản xuất, mở rộng khai hoang, nâng cao năng suất, hoàn thành nghĩa vụ của Nhà nước giao. Nhiều sản phẩm của Nghĩa Đàn được xuất khẩu sang các nước và kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam. Nhiều hồ, đập được xây đắp trong thời gian này để phục vụ cho sản xuất và đời sống; trong đó, tháng 5/1972, Đoàn thanh niên tổ chức đắp đập Hòn Sường (xã Nghĩa Hoà) đã phát hiện ra các hiện vật như trống đồng, dao găm, vòng đeo tai… - Sau này, được công nhận là Khu Di chỉ Khảo cổ học làng Vạc. Phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” vẫn vang lên trong các thôn, xóm, đội sản xuất. Phong trào “Dạy tốt, học tốt” được nâng lên, nhất là việc học bổ túc văn hoá. Việc xây dựng Ba công trình vệ sinh (Giếng nước, nhà tắm và hố xí) được chú trọng…
Chăm lo phát triển kinh tế, xã hội và chiến đấu, phục vụ chiến đấu luôn đi cùng với việc chú trọng xây dựng tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể. Trong từng thời gian, từng giai đoạn của cách mạng, Đảng bộ huyện thông qua các kỳ đại hội và từ thực tiễn cuộc sống đã luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, đề ra các chủ trương, giải pháp đúng đắn và kịp thời khắc phục những khuyết điểm, sai lầm. Sự lãnh đạo của các tổ chức đảng từ huyện đến cơ sở là nhân tố quan trọng, có tính quyết định để thực hiện tốt mục tiêu: Xây dựng Nghĩa Đàn trở thành hậu phương vững chắc, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Nhiều tập thể, cá nhân xuất sắc được tuyên dương, khen thưởng; lớp lớp đảng viên, đoàn viên được kết nạp và luôn là nòng cốt cho các phong trào trên các lĩnh vực; nhiều cán bộ, đảng viên đã trưởng thành tốt từ trong thời kỳ oanh liệt này.
Ngày 30/4/1975, đất nước trọn niềm vui khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông liền một dải, Bắc – Nam sum họp một nhà. Thắng lợi vè vang đó có một phần đóng góp không nhỏ của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Nghĩa Đàn. Với thành tích to lớn ấy, Nhân dân và Cán bộ huyện Nghĩa Đàn vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân” thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
Niềm vui thống nhất đất nước đến với mọi người, mọi nhà. Và, Nghĩa Đàn lại cùng chung tay với cả nước, sẵn sàng bước sang một thời kỳ mới: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
(Còn nữa)
Phan Tiến Hải ( Nguyên Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Nghĩa Đàn )