Đồng chí Hồ Tùng Mậu tên khai sinh là Hồ Bá Cự, sinh ngày 15/6/1896 tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tên gọi Hồ Tùng Mậu được dùng khi bắt đầu hoạt động cách mạng ở Thái Lan và còn mang nhiều bí danh khác nhau như: Ích, Lương Tử Anh, Phan Tái, Hồ Mộng Tống, Hồ Quốc Đống.
Đồng chí Hồ Tùng Mậu sinh ra và lớn lên trong một gia đình, dòng họ, quê hương có truyền thống yêu nước, văn hóa và cách mạng. Ông nội là Phó Bảng Hồ Bá Ôn, làm quan ở tỉnh Nam Định. Cha là Hồ Bá Kiện thi đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan mà tham gia phong trào Văn thân chống Pháp. Mẹ là Phan Thị Liễu, thuộc dòng dõi nho gia. Hồ Tùng Mậu sớm mang trong mình những khát khao và hoài bão lớn.
Mùa Xuân năm 1920, đồng chí Hồ Bá Cự đổi tên là Hồ Tùng Mậu cùng Lê Hồng Sơn, Nguyễn Thị Tích, Đặng Quỳnh Anh dưới sự dẫn đường của Đặng Xuân Thanh một số thanh niên yêu nước bí mật sang Xiêm. Sau ba tháng ở Trại Cày ở Bản Đông (tỉnh Phì Chịt), cụ Đặng Thúc Hứa đã gửi Hồ Tùng Mậu sang Trung Quốc hoạt động cách mạng.
Năm 1923, đồng chí Hồ Tùng Mậu cùng Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái thành lập tổ chức “Tâm Tâm xã”. Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã gặp mặt những thanh niên Việt Nam yêu nước trong “Tâm Tâm xã”. Tháng 6/1925, Người thành lập tổ chức “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội” và mở lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên ở trong nước sang. “Ban huấn luyện chính trị đặc biệt” đặt ở ngôi nhà số 13 đường Văn Minh (Quảng Châu). Hồ Tùng Mậu là một trong những lớp người đầu tiên tham gia tổ chức Hội.
Tháng 3/1926, do yêu cầu của cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu Hồ Tùng Mậu gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc. Từ năm 1927-1929, đồng chí Hồ Tùng Mậu đã 3 lần bị bắt giam và chịu đủ mọi cực hình tra tấn của nhà tù đế quốc.
Đầu năm 1930, đồng chí Hồ Tùng Mậu cùng Lê Hồng Sơn chuẩn bị tích cực cho Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập tại Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) ngày 3/2/1030.
Đồng chí Hồ Tùng Mậu là một trong những người gần gũi và là người học trò, người giúp việc đắc lực cho Nguyễn Ái Quốc. Khi Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt giam trái phép năm 1931, nhờ sự nhạy bén kịp thời của Hồ Tùng Mậu báo cho các đồng chí của mình về việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam trái phép, chính quyền Anh ở Hồng Kông không thể thực hiện âm mưu cấu kết với chính quyền Pháp ở Đông Dương bí mật bắt để chuyển Tống Văn Sơ – Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương. Thông tin kịp thời của Hồ Tùng Mậu đã làm thất bại kế hoạch chuẩn bị công phu của chính quyền thực dân Pháp. Đồng thời, đồng chí là người tích cực liên hệ với Hội quốc tế Cứu tế Đỏ và vận động luật sư Lô-giơ-bai dùng pháp lý đấu tranh buộc chính quyền Anh ở Hồng Kông trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 6/1930, đồng chí Hồ Tùng Mậu bị cảnh sát Anh bắt tại Trung Quốc, chúng giao anh cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Ngày 6/2/1931, toà án Nam triều tỉnh Nghệ An kết án Hồ Tùng Mậu khổ sai chung thân đày đi Kon Tum. Trải qua các nhà lao của đế quốc như nhà lao Vinh, Kon Tum, Ban Mê Thuột, Trà Khê (Phú Yên)... nhưng đồng chí vẫn luôn giữ vững khí tiết người cộng sản, biến nhà tù thành trường học cách mạng. Trải qua nhiều lần bị tù đày, nhiều nhà tù khác nhau, với tình cảm chân thành, ấm áp của tình đồng chí Hồ Tùng Mậu đã trở thành trung tâm đoàn kết trong chốn ngục tù. Bằng trí tuệ và ngòi bút sắc sảo, Hồ Tùng Mậu đã sáng tác nhiều bài thơ để động viên, khích lệ tinh thần đồng chí của mình. Bài thơ “Tin tưởng”, “Thà chết còn hơn mất tự do” đã trở thành lẽ sống của người cách mạng khi đối mặt với kẻ thù. Đồng chí đã trở thành nhà viết kịch, nhà văn, nhà thơ trong tù qua các tác phẩm thơ văn yêu nước và cách mạng.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Hồ Tùng Mậu cùng anh em tù chính trị phá nhà lao Trà Khê trở về quê hoạt động cách mạng.
Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí Hồ Tùng Mậu được Chủ tịch Hồ Chí Minh uỷ thác làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống liên lạc giữa Uỷ ban nhân dân cách mạng các địa phương từ Bắc vào Nam. Năm 1946, đồng chí được cử làm Giám đốc kiêm Chính uỷ Trường Quân chính khu IV – đặt nền móng cho công tác đào tạo cán bộ quân sự chính trị cấp cơ sở cho khu vực Bắc Trung Bộ. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947, đồng chí được Đảng và Chính phủ giao nhiệm vụ làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến Liên khu IV. Năm 1949, đồng chí được giữ chức Tổng Thanh tra Chính phủ. Đầu năm 1950, Hồ Tùng Mậu là Hội trưởng Hội hữu nghị Việt – Hoa. Dù ở cương vị nào, đồng chí Hồ Tùng Mậu cũng thể hiện là một người cán bộ lão thành cương trực và trung hậu, luôn sẵn sàng làm nhiệm vụ với một tinh thần trách nhiệm cao, với phẩm chất cách mạng tốt đẹp cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tinh thần tận tụy, thanh liêm.
Năm 1951, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí Hồ Tùng Mậu được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày 21/7/1951, trên đường vào Liên khu IV công tác, đồng chí Hồ Tùng Mậu đã bị máy bay địch phát hiện, đuổi bắt và hy sinh tại thị trấn Còng, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá. Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng đau đớn, đã viết bài điếu văn và truy tặng đồng chí Hồ Tùng Mậu Huân chương Hồ Chí Minh.
Đồng chí Hồ Tùng Mậu với chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ khi sinh ra cho đến phút cuối, đồng chí Hồ Tùng Mậu đã viết tiếp trang sử vẻ vang của gia đình, dòng tộc: “Đời nối đời vì nước”. Ở đồng chí nhất quán một lẽ sống ở đời và làm người cao đẹp: Vì nước, vì dân, quên thân vì nghĩa lớn. Đồng chí là lãnh tụ cách mạng tiền bối tiêu biểu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để công nhận và nêu gương tinh thần cách mạng của đồng chí Hồ Tùng Mậu đối với Tổ quốc và quê hương, Nhà thờ và phần mộ của đồng chí đã được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia. Ở Nghệ An và nhiều địa phương trong cả nước đã lấy tên đồng chí đặt tên cho các trường học, đường phố. Ngày 18/1/2008, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết đã ký quyết định truy tặng Huân chương Sao Vàng cho đồng chí Hồ Tùng Mậu.
Ở đồng chí Hồ Tùng Mậu không chỉ là người chiến sỹ cộng sản chân chính, cán bộ tổ chức có tài, có bản lĩnh, dày dạn kinh nghiệm mà còn là một tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng, mang giá trị nhân văn cao cả. Với gia đình, nhiều lần nén nỗi đau riêng trong lòng để đứng vững, đi theo con đường đã chọn. Với quê hương, đồng chí gần gũi, chia sẻ đầy trách nhiệm. Với cấp dưới, đồng sự, đồng chí bao giờ cũng sâu sát ân cần. Tất cả ở đồng chí toát lên đạo lý ngàn đời của dân tộc: Yêu nước, thương nòi, nhân ái với con người… Vẻ đẹp trong nhân cách con người đồng chí làm sáng lên và lan tỏa các giá trị văn hóa của Đảng ta.
Một góc quê hương đồng chí Hồ Tùng Mậu ngày nay
Học tập tấm gương cao đẹp, trong sáng của đồng chí Hồ Tùng Mậu, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý chí cách mạng, tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người cộng sản, kiên trì học tập, nâng cao nhận thức, trình độ về mọi mặt, tích cực hoạt động thực tiễn, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng và của nhân dân lên trên hết, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc./.
BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY NGHĨA ĐÀN